top of page
trungnguyen9

Biển lớn khai phóng đi không hề dễ

(*Bài viết là chia sẻ của TS. Nguyễn Chí Hiếu)


Đại học và du học, trong cách nghĩ rất hồn nhiên của nhiều học sinh, như là một bước kế tiếp của thời phổ thông. Chúng không hiểu rằng ngoài đó là một thế giới hoàn toàn khác, là cái dịp để chúng bứt phá ra khỏi một hệ tư tưởng chật hẹp đã kìm kẹp chúng trong ngần ấy năm.

 

Giở tung tấm rèm đại học

Đại học khai phóng có sứ mệnh bắc cầu để sinh viên tiếp cận với các vĩ nhân, những tư duy lớn của thế giới xưa và nay, để từ đó bật lửa cho những thiên tài đang ngủ và thổi lửa cho cả sức tưởng tượng, sáng tạo của mỗi sinh viên. Giáo dục khai phóng hun đúc năng lực vượt qua giới hạn, vượt qua rào cản của sự vô tri, khuôn mẫu và tự phụ.

Thay vì bày ra những kịch bản sắp đặt quá chặt chẽ với những chuẩn mực phải răm rắp làm theo, giáo dục khai phóng ở bậc đại học giúp cho sinh viên khám phá và làm chủ mọi cơ hội để đi tìm đam mê, ý nghĩa và mục đích trong công việc và cuộc đời. Đó là những triết lý tích lũy, lắng đọng qua hàng trăm năm của giáo dục khai phóng ở nhiều nền giáo dục, đặc biệt là giáo dục Mỹ.

Thế nhưng, trong cuốn sách Excellent Sheep (tạm dịch: Những con cừu xuất sắc), viết về “vấn nạn” của nhiều sinh viên tại các trường đại học hàng đầu nước Mỹ, William Deresiewicz, cựu giám đốc tuyển sinh của Đại học Yale, đã bộc bạch:


Các trường đại học hàng đầu nước Mỹ đang biến sinh viên thành những zombies (xác sống).

Còn trong cuốn Academically Adrift (tạm dịch: Lạc trôi đại học), giáo sư Richard Arum đã mổ xẻ cách học và đo lường hiệu quả học tập của sinh viên ở hàng loạt trường đại học Mỹ. Nghiên cứu của ông đã chỉ ra: một bộ phận lớn trong sinh viên chẳng cải thiện mấy ở những kỹ năng quan trọng như tư duy phản biện, viết lập luận phân tích sau bốn năm đại học, ngay cả ở những trường danh giá.



Học theo lối mòn khuôn mẫu là cách dễ nhất để lạc lối sau ra trường.

Một phần nguyên nhân là do cách học của sinh viên không khác gì cách chúng gạo bài thời phổ thông. Vào đại học, chúng vẫn khệ nệ xách theo cái tư duy học hành, kiểm tra lẽ ra nên chấm hết từ thời phổ thông: học nhồi, học không cần hiểu sâu và chẳng chịu đào xới tận cùng của vấn đề. Sinh viên ít có ý thức tự học, tự khai thác nguồn tài nguyên bao la trong đại học để mổ xẻ bản chất của vấn đề. Không ít sinh viên hài lòng dừng lại ở những thứ nông hời, cốt sao được điểm cao, theo đúng cái cách chúng đã đi qua suốt 12 năm phổ thông.

Trong cuốn sách Make It Stick (tạm dịch: Học là phải dính), tác giả đã chỉ ra 80% sinh viên đại học vẫn “tôn thờ” kiểu học nhai đi nhai lại sách giáo trình, ghi nhớ và thuộc lòng thông tin. Kiểu học này vừa tốn thời gian, vừa không đổ móng vững vàng nền tảng kiến thức. Ngoài ra, nó cũng dễ đem lại ảo tưởng là người học đã sở hữu và dư sức vận dụng được kiến thức vào thực tiễn công việc, cuộc sống.

Có một ý niệm ăn sâu vào suy nghĩ của cha mẹ và nhiều người làm giáo dục, thâm căn cố đế đến mức có lẽ đã trở thành vô thức:

Con đường đến với thành công, danh vọng được lát bởi tên các trường đại học Ivy League hoặc tương tự như Stanford, MIT, Oxford, Cambridge.

Thế nhưng, với những sinh viên bước vào đại học một cách thụ động nhờ có sự đầu tư chăn dắt quá mức của cha mẹ, chúng khó lòng xây dựng được cho bản thân cái ý thức và bản lĩnh để tự học, làm chủ đại học và chinh phục cuộc sống. Ngược lại, có khi chúng còn bị choáng ngợp bởi nhiều yếu tố khác: sự giỏi giang đích thực của những sinh viên khác, hàng loạt hoạt động và câu lạc bộ lắm cám dỗ và dễ làm xao nhãng việc học, khoảng trống to lớn giữa những gì đã học và cách học của chúng với thế giới việc làm, cuộc sống sau tốt nghiệp,...

Đại học là thời gian tốt nhất để một học sinh tự do đi tìm đam mê thay vì chạy theo những khuôn mẫu vạch sẵn. Do vậy, thật nguy hiểm khi ngộ nhận rằng chỉ cần một học sinh bước chân vào một trường đại học danh tiếng, ngồi đó và học theo y chang cái kiểu luyện nhồi của thời phổ thông là chúng sẽ được khai phóng, và mọi thành công, danh vọng sẽ tự động tìm đến.

Thế giới chẳng chịu đứng im

Annmarie Neal, Giám đốc Tài năng của Cisco Systems, một trong những công ty lớn về hệ thống công nghệ, đã tư vấn cho lãnh đạo của các tập đoàn Fortune 100 trên toàn thế giới. Bà quả quyết: Hầu hết các trường đại học ưu tú nhất đang không chuẩn bị đủ cho sinh viên thích nghi với những thay đổi chóng mặt của một thế giới sáng tạo không ngừng. Những sinh viên “thành công” trong các hệ thống giáo dục ngày nay chủ yếu tập trung vào thành tích, tuân thủ những luật lệ và khuôn khổ, suy nghĩ đơn giản và tuyến tính, chỉ tập trung vào một mảng kiến thức hạn hẹp và thiếu tích hợp.

Thế nhưng, thế giới cần những người sáng tạo và đột phá, suy nghĩ đa chiều và tích hợp nhiều mảng kiến thức. Người làm chủ thế giới hiện tại và tương lai là những người có thể thay đổi, kiến tạo đường lối mới, những người có thể không quá nhiều thành tích huy chương nhưng lại có thể xây dựng các mối quan hệ hợp tác tốt với người khác. Bởi thế, số lượng nhân tài thật sự để bổ sung vào lực lượng lao động sáng tạo đang thiếu hụt trầm trọng, mặc dù mỗi năm vẫn có hằng hà sa số học sinh, sinh viên được “xuất xưởng”.


Để tồn tại, đừng tự gông mình vào khuôn mẫu học-để-thi.

Thomas Friedman, cây bút kỳ cựu của tờ New York Times với nhiều giải thưởng Pulitzer báo chí, đã ghi nhận:


Hãy cẩn thận đấy. Tấm bằng đại học của bạn không nói được gì nhiều về khả năng làm việc của bạn. Thế giới này quan tâm đến việc bạn có thể làm gì với điều bạn biết. Kỷ nguyên sáng tạo này đòi hỏi nhiều hơn là những thước đo cũ kỹ kia. Nó quan tâm đến những kỹ năng mềm của bạn nhiều hơn – năng lực lãnh đạo, tính khiêm nhường, khả năng hợp tác, khả năng thích nghi, và niềm yêu thích học tập, cải thiện bản thân. Bất chấp bạn đi làm ở bất cứ đâu và bước ra từ bất cứ trường học nào.

Đại học, dù có xịn đến đâu, thì cũng chỉ là một cái tên. Quan trọng là chính năng lực, bản lĩnh, tính cách và tư duy của mỗi con người.

Trường đời nhiều ngã rẽ

Năm 2014, Tổ chức Gallup kết hợp với Đại học Purdue (Mỹ), đưa ra một báo cáo mang tên Great Jobs, Great Lives (tạm dịch: Việc làm tốt, cuộc sống tốt), phân tích mối tương quan giữa trường học và thành công trong cuộc sống. Họ tiến hành khảo sát những người cuối độ tuổi 20 về công việc, mức độ hài lòng với công việc, hạnh phúc, tình trạng gia đình bên cạnh tiểu sử học hành.

Kết quả cho thấy điểm trung bình trong học bạ và điểm số các bài thi không phải là những điều kiện tiên quyết cho thành công trong tương lai. Những yếu tố then chốt chính là những người hướng dẫn, công việc thực tập, và những dự án dài hơi có ý nghĩa, có mục đích mà mỗi người theo đuổi thời đại học.

Những sắc màu tính cách giúp cho một ai đó thành công và hạnh phúc trong công việc lẫn cuộc sống hoàn toàn không được phản ánh qua những điểm số trên trường. Việc một người thành công trong công việc và hạnh phúc trong các mối quan hệ cuộc sống là do thái độ tích cực và mức độ thông minh về mặt cảm xúc. Nhờ vào đó, họ mới phân biệt được rạch ròi giữa điều gì quan trọng, ý nghĩa với cuộc đời mình và điều gì là không.

Nhiều sinh viên bước chân vào trường đại học trong niềm hân hoan được cởi trói sổ lồng, thoát khỏi vòng kiểm soát của gia đình và trường phổ thông. Lần đầu tiên chúng được toàn quyền quyết định giờ giấc ăn ngủ, học hành, giải trí,… Và đó là một sự tự do khó cưỡng.


Vì lẽ đó, nhiều sinh viên hầu như chẳng dành thời gian để tìm hiểu về bản thân, không tự kiểm soát và chèo lái được cuộc sống của mình, không đủ sức cưỡng lại những cám dỗ của ăn chơi, hội hè,… Họ chẳng mảy may để ý đến cuộc sống rất rộng và rất dài ở tương lai mà mải mê chìm đắm trong trong những thú vui hiện tại.


Đâu là màu sắc cá nhân của ta?

Rồi bất chợt một ngày, họ nhận ra bốn năm đại học sắp kết thúc nhưng họ hãy còn quá hoang mang về hành trình sau đại học. Trước bao ngã rẽ đường đời, nhận thức của các sinh viên ấy về bản thân vẫn chẳng khác mấy so với thời phổ thông, cứ mơ hồ, mờ đục như tấm kính phủ bụi lâu ngày. Thế là họ vội vàng chọn đại một nghề, làm đại một công việc và sống đại một cuộc đời mà chính họ cũng không hiểu rõ đó có phải là điều họ thật sự cần và yêu thích hay không.

Đại học lẽ ra là một cơ hội quý báu để chúng lật tung bản thân của mình, đập vỡ nó ra, đào xới và vận động tư duy, nhìn ngắm tâm hồn của mình thật lâu và đủ sâu. Từ đó, chúng mới dần nhận ra mình là ai giữa cuộc đời, ngoài những con số và thành tích mà bố mẹ và nhiều thầy cô, trường lớp đã thi nhau quàng lên cổ chúng trong suốt ngần ấy năm.

Nhiều sinh viên tốt nghiệp, đi làm ở những công ty lớn và đóng đô ở những thành phố mơ ước trong con mắt hâm mộ của nhiều người, thật ra lại đang lạc lõng và cô đơn, buồn chán giữa những phồn hoa hào nhoáng. Ít khi nào, chúng cảm thấy bình yên và hạnh phúc giữa dòng đời chảy xiết.

Thế kỷ 21 có lẽ đã quá dư thừa những người theo đuôi thụ động, và cũng sắp hết chỗ chứa cho những điều rập khuôn. Trong khi đó, con tàu mang tên sáng tạo và tiên phong lại đang rộng rãi và thừa ghế trống. Ở đó đang có quá ít người trẻ đủ nền tảng và sức bền để bước lên tàu, cầm tay lái và chinh phục đầu sóng nơi biển lớn bằng chính sức lực và bản lĩnh của mình.


Kết


  • Đại học khai phóng bắt buộc sinh viên phải tự tìm tòi, tư duy sáng tạo, và học sâu - thay vì sử dụng cách học khuôn mẫu “học để thi”.

  • Ngay cả khi thế mạnh của đại học khai phóng là tập trung vào các kỹ năng mềm của người học, thì sinh viên vẫn phải tự lực làm mới mình, chứ không thể thụ động trông chờ vào “đại học khai phóng” để bản thân được năng động hơn.

  • Hãy tận dụng khoảng thời gian đại học để đào sâu nhận thức về bản thân mình.



1 view0 comments

Comments


bottom of page